Người ta thấy rằng có nhiều yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính được nhắc đến như :
- Trẻ đẻ thiếu cân
- Suy dinh dưỡng cũng là yếu tố dễ mắc nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính hơn trẻ bình thường và khi bị nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp thì thời gian điều trị kéo dài hơn và có tiên lượng xấu hơn.
- Trẻ không được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ.
- Ô nhiễm nội thất, khói bụi trong nhà,thuốc lá sẽ làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động bảo vệ của niêm mạc đường hô hấp và như vậy trẻ sẽ dễ bị mắc bệnh hơn.
- Thời tiết lạnh thay đổi đột ngột là điều kiện thuận lợi gây nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính , đặc biệt là thời điểm chuyển mùa.
- Nhà ở chật chội, thiếu vệ sinh, đời sống kinh tế thấp, thiếu vitamin A cũng là những yếu tố nguy cơ thường được nhắc đến.
Theo vị trí giải phẫu của đường hô hấp, người ta phân làm 2 loại nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp :
* Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên thường nhẹ, hay gặp hơn bao gồm:Viêm mũi họng, VA, viêm amidan, viêm tai giữa, các trường hợp ho, cảm lạnh…
* Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ít gặp hơn nhưng thường nặng bao gồm các trường hợp viêm thanh quản, khí quản, phế quản, tiểu phế quản và viêm phổi.
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính có thể biểu hiện bằng nhiều dấu hiệu như sốt, ho, chảy nước mũi, nhịp thở nhanh, cánh mũi phập phồng, rút lõm lồng ngực , thở khò khè , tím tái…Trên thực tế người ta có thể dựa vào các dấu hiệu cơ bản như ho, thở nhanh, rút lõm lồng ngực và một số dấu hiệu sau để phân loại mức độ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và định hướng nhanh thái độ xử trí:
1. Nhiễm khuẩn hô hấp nhẹ (Không viêm phổi) trẻ chỉ có dấu hiệu ho, chảy nước mũi, không thở nhanh, không rút lõm lồng ngực. Cần lưu ý rằng phải quan sát nhịp thở của trẻ trong lúc trẻ nằm yên hoặc ngủ.Trẻ được coi là thở nhanh khi nhịp thở trên 60 lần/ phút đối với trẻ sơ sinh và trên 50 lần/ phút đối với trẻ từ 2-12 tháng, trên 40 lần/ phút đối với trẻ từ 1- 5 tuổi.Dấu hiệu rút lõm lồng ngực ở trẻ dưới 2 tháng tuổi phải là rút lõm lồng ngực mạnh mới có giá trị vì bình thường ở những trẻ này có thể cũng có dấu hiệu rút lõm lồng ngực nhẹ.
2. Nhiễm khuẩn hô hấp thể vừa (Viêm phổi) nếu trẻ có dấu hiệu thở nhanh nhưng không rút lõm lồng ngực.
3. Nhiễm khuẩn hô hấp thể nặng (Viêm phổi nặng) khi trẻ có dấu hiệu rút lõm lồng ngực.
Nhiễm khuẩn hô hấp rất nặng nếu trẻ có một trong các dấu hiệu nguy hiểm sau: Không uống được, co giật, ngủ li bì, khó đánh thức, thở rít khi nằm yên, suy dinh dưỡng nặng. Ở trẻ nhỏ dưới 2 tháng tuổi có dấu hiệu bỏ bú, sốt hoặc hạ thân nhiệt, thở khò khè.
Mặc dù nguyên nhân chủ yếu của viêm đường hô hấp cấp tính là do vi rút nhưng tránh hoàn toàn việc không bị bội nhiễm thêm vi khuẩn là điều khó thực hiện được. Tuy nhiên dùng kháng sinh loại gì và theo cách nào cần phải có chỉ định của bác sỹ. Vì dùng kháng sinh không đúng chỉ định sẽ không đem lại hiệu quả, gây lãng phí và tạo sự kháng thuốc của vi khuẩn đôi khi còn nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Nhìn chung các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp trên có thể theo dõi và điều trị tại nhà . Hãy đưa trẻ đến khám lại nếu ho kéo dài hoặc trẻ khó thở hơn, thở nhanh hơn, bú kém, mệt. Nên điều trị và theo dõi tại cơ sở y tế nếu có các dấu hiệu nhiễm khuẩn hô hấp mức độ vừa trở lên.
Để giảm tỷ lệ tử vong và mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em, cần tiến hành các biện pháp phòng bệnh sau:
1. Bảo đảm cho trẻ được bú mẹ sau khi đẻ càng sớm càng tốt, cho trẻ ăn sam đúng đảm bảo chế độ dinh dưỡng hàng ngày.
2. Vệ sinh cá nhân và môi trường sạch sẽ, nhà cửa thoáng mát, không khí trong lành.
3. Không nên đun bếp, hút thuốc lá trong phòng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
4. Giữ ấm cho trẻ về mùa đông và khi thay đổi thời tiết.
5. Tiêm chủng phòng bệnh đày đủ đúng lịch.
6. Phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh đặc biệt các dấu hiệu nặng để điều trị kịp thời.